Thành ngữ Trung Quốc: Chim sa cá lặn, hoa nhường nguyệt thẹn - Tiếng Trung Nguyên Khôi

Cùng TIẾNG TRUNG NGUYÊN KHÔI tìm hiểu về ý nghĩa và điển tích của thành ngữ "Chim sa cá lặn, hoa nhường nguyệt thẹn" bạn nhé!

By Vũ Phương | Văn hóa Trung Quốc | 7 Tháng Mười Một, 2023 | 0

“Chim sa cá lặn, hoa nhường nguyệt thẹn” là thành ngữ quen thuộc được người Việt sử dụng khi muốn ví von về vẻ đẹp của người phụ nữ. Tuy nhiên, bạn đã biết nguồn gốc và điển tích của thành ngữ quen thuộc này chưa?

Cùng Tiếng Trung Nguyên Khôi tìm hiểu về Thành ngữ có nguồn gốc từ Trung Quốc – “Chim sa cá lặn, hoa nhường nguyệt thẹn” này nhé!

1. Thành ngữ “Chim sa cá lặn, hoa nhường nguyệt thẹn”

“Chim sa cá lặn, hoa nhường nguyệt thẹn” xuất phát từ 2 thành ngữ Trung Quốc nguyên gốc như sau:

沉鱼落雁 = chényú luòyàn = trầm ngư lạc nhạn = Chim sa cá lặn

闭月羞花 = bìyuè xiūhuā = bế nguyệt tu hoa = Hoa nhường nguyệt thẹn

Thành ngữ này xuất phát từ “Tứ đại mỹ nhân” trong lịch sử Trung Quốc bao gồm: Tây Thi, Chiêu Quân, Điêu Thuyền và Dương Quý Phi.

  • Tây Thi sống vào thời Xuân Thu, khoảng thế kỷ VII – VI Trước CN;
  • Vương Chiêu Quân thời Tây Hán, khoảng thế kỷ I Trước CN;
  • Điêu Thuyền thời Tam Quốc, khoảng thế kỷ thứ III;
  • Dương Quý Phi thời Nhà Đường (719 – 756).

Dân gian Trung Quốc truyền tụng vẻ đẹp của 4 người đẹp này như sau: “Tây Thi trầm ngư/ Chiêu Quân lạc nhạn/ Điêu Thuyền bế nguyệt/ Dương Ngọc Hoàn tu hoa”. Tức: Tây Thi có nét đẹp làm cá phải lặn (trầm ngư); Vương Chiêu Quân khiến chim nhạn mãi ngắm nhìn quên bay nên rơi rớt (lạc nhạn); Điêu Thuyền đẹp đến nỗi trăng cũng phải khép, núp vào mây (bế nguyệt); Dương Ngọc Hoàn (Dương Quý Phi) khiến cho hoa rũ héo vì hổ thẹn không được đẹp bằng (tu hoa).

2. Điển tích “Chim sa cá lặn, hoa nhường nguyệt thẹn”

a. Trầm ngư

Tây Thi tên là Di Quang, là con một người kiếm củi. Nàng là người nước Việt, làm nghề dệt vải ở núi Trữ La, sống ở thời Xuân Thu. Trữ La có hai thôn: thôn Đông và thôn Tây, nàng Thi là người ở thôn Tây, vậy nên gọi là Tây Thi. Tây Thi mắt trong suốt, mày phương phi, miệng chúm chím. Tương truyền nàng đẹp đến nỗi, ngay cả khi nhăn mặt cũng khiến người ta mê hồn. 

Một hôm, nàng cùng các thôn nữ khác đến bên sông giặt giũ như thường lệ. Khi nàng giặt áo bên bờ sông, bóng nàng soi trên mặt nước sông trong veo làm nàng thêm xinh đẹp. Cá nhìn thấy nàng, say mê đến quên cả bơi, dần dần chìm xuống đáy sông. Từ đó, người trong vùng xưng tụng nàng là “Trầm Ngư”‘ (沉鱼 – chényú).

b. Lạc nhạn

Nàng Vương Chiêu Quân sống dưới thời nhà Tây Hán. Vương Chiêu Quân xinh đẹp nức tiếng nên được tuyển vào nội cung. Nàng thông thạo cầm, kỳ, thi, họa, đặc biệt là tài gảy đàn tỳ bà. Thủ lĩnh Hung Nô đến kinh đô nhà Hán để tỏ lòng thần phục và xin được trở thành con rể của vua Hán. Thời đó xứ Hung Nô xa xôi cách trở nên các cung nữ không ai dám sang, duy chỉ mỗi Chiêu Quân bước ra tình nguyện lấy vua Hung Nô để giữ mối hòa bình cho quốc gia. 

Chiêu Quân xuất tái (昭君出塞 – Chiêu Quân rời biên ải) là một điển tích nổi tiếng của Trung Quốc. Khi Chiêu Quân đi ngang một hoang mạc lớn, lòng nàng chan chứa nỗi buồn vận mệnh cũng như lìa xa quê hương. Nhân lúc ngồi lưng ngựa buồn u uất, nàng liền lôi chiếc đàn tì bà, gẩy lên bản “Xuất tái khúc” (Khúc rời biên ải). Có một con ngỗng trời bay ngang, nghe nỗi u oán cảm thương trong khúc điệu liền ruột gan đứt đoạn và sa xuống đất. Từ đó, mỹ danh “Lạc nhạn” (落雁 – luòyàn) ra đời.

c. Bế nguyệt

Nàng Điêu Thuyền là một nhân vật được La Quán Trung hư cấu trong tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa. Theo truyện, nàng Điêu Thuyền sống vào thời Tam Quốc.

15 tuổi, Điêu Thuyền vào cung làm nữ tỳ chuyên phục vụ coi sóc trang phục cho các quan trong triều. Nàng được cho là có sắc đẹp “quốc sắc thiên hương” (sắc nước hương trời), “khuynh quốc khuynh thành” (nghiêng nước nghiêng thành), thông minh hơn người. Khi Điêu Thuyền ra ngoài trời đêm bái trăng thì mây kéo đến che khuất mặt trăng. Cha nuôi Vương Doãn cho là lạ, lại muốn làm tôn lên vẻ đẹp của con gái, nên phao lên rằng Điêu Thuyền đẹp đến nỗi trăng cũng phải giấu mình. Từ đó, nàng được mọi người xưng tụng nhan sắc là “Bế nguyệt” (闭月 – bìyuè).

d. Tu hoa

Dương Ngọc Hoàn mồ côi cha mẹ khi mới lọt lòng, được người chú làm quan ở Hà Nam nhận về nuôi dưỡng. Khi đã thành thiếu nữ, Ngọc Hoàn tiến cung và được vua Đường Huyền Tông (Đường Minh Hoàng) sủng ái, phong phi, đặt tên Dương Quý Phi. 

Tương truyền, sau khi vào cung, nàng luôn buồn nhớ quê hương, nhớ gia đình. Một hôm Quý phi đến hoa viên thưởng hoa giải sau, nhìn thấy hoa Mẫu Đơn, Nguyệt Quý nở rộ, nghĩ rằng mình bị nhốt trong cung, uổng phí thanh xuân, lòng không kềm được, buông lời than thở: “Hoa à, hoa à! Ngươi mỗi năm mỗi tuổi đều có lúc nở, còn ta đến khi nào mới có được ngày ấy?”. Lời chưa dứt lệ đã tuông rơi, nàng vừa sờ vào hoa, hoa chợt thu mình, lá xanh cuộn lại. Nào ngờ, nàng sờ phải là loại hoa trinh nữ (cây xấu hổ). Lúc này, có một cung nga nhìn thấy, người cung nga đó đi đâu cũng nói cho người khác nghe việc ấy. Từ đó, mọi người gọi Dương Ngọc Hoàn là “Tu hoa” (羞花 – xiūhuā), có nghĩa là vẻ đẹp khiến hoa thu mình lại vì hổ thẹn.

Trên đây là ý nghĩa và điển tích của thành ngữ Trung Quốc: “Chim sa cá lặn, hoa nhường nguyệt thẹn”. TIẾNG TRUNG NGUYÊN KHÔI hy vọng bài viết sẽ giúp ích cho quá trình học tập, tìm hiểu về văn hóa Trung Quốc.

Nếu có bất cứ khó khăn hoặc thắc mắc gì, bạn có thể comment ngay dưới bài viết hoặc nhắn tin cho chúng mình nhé!

Admin

Link nội dung: https://ngayqua.com/index.php/thanh-ngu-trung-quoc-chim-sa-ca-lan-hoa-nhuong-nguyet-then-tieng-trung-nguyen-khoi-1730855107-a9140.html